Máy dệt khung gỗ từng là niềm tự hào của những người thợ dệt Bảy Hiền, giờ đây đang đứng trước nguy cơ mai một.
Làng dệt Bảy Hiền (phường 11, quận Tân Bình, TP HCM) từng là nơi những người dân huyện Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam) di cư vào lập nghiệp trong những năm chiến tranh và tiếp tục mưu sinh bằng nghề dệt mang từ quê hương. Vào những năm 80 – 90 thế kỷ trước, làng dệt nức tiếng này có tới 1.700 hộ theo nghề, lượng vải làm ra cung cấp khắp miền Nam. Ngày nay, số hộ dân trụ với nghề chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ông Trương Mậu Đông (47 tuổi, ở đường Nguyễn Bá Tòng) là người hiếm hoi thuộc thế hệ thứ sáu trong gia đình theo nghề dệt. Một mình ông phụ trách 4 máy dệt khung gỗ, công nghệ của những năm 1980.
“Nghề này khó và cực lắm vì máy chạy ồn ào cả ngày nhưng thợ phải luôn tay luôn mắt. Nhiều năm trước, gia đình tôi cũng có hơn chục máy. Mỗi máy mua cả hơn cây vàng, giờ hàng làm ra ế ẩm quá nên phải bán bớt”, ông Đông thở dài, vừa điều chỉnh khung dệt truyền thống.
Cứ khoảng 5 – 10 phút, ông Đông tra con thoi vào khuôn để tiếp tục dệt. Theo ông, công việc này lặp lại và kéo dài suốt 6 đến 8 tiếng trong ngày.
Vừa dệt, ông Đông vừa kiêm công việc sửa máy khi gặp sự cố. “Máy dệt thủ công nên thường gặp trục trặc. Lỗi nhẹ thì không sao, còn nếu thay cả khung gỗ Nghè Diễn như ngày xưa thì khó lắm vì không nơi nào sản xuất nữa”, người thợ hơn 30 năm gắn bó với nghề chia sẻ.
Cũng theo ông Đông, mỗi máy dệt gỗ hoạt động cả ngày lẫn đêm được 40 – 50 m vải mộc loại phi bóng. Loại vải này bán ra thị trường giá khoảng 6.000 đồng mỗi mét. “Tính trung bình mỗi tháng, tôi kiếm được khoảng 5 triệu đồng từ nghề, chỉ tạm đủ ăn chứ không dư dả”, ông cho biết.
Nằm trong con hẻm nhỏ đường Năm Châu, xưởng dệt với 4 máy của gia đình ông Nguyễn Cường tất bật hoạt động. “Đời tôi là đời thứ ba nối nghề từ các cụ. Nhưng giờ máy móc lỗi thời quá rồi, sản phẩm làm ra năng suất thấp, buôn bán ế ẩm, trong khi nhiều nơi trang bị máy móc hiện đại, sản xuất hàng loạt nên tôi cũng không biết còn làm nghề này tới khi nào”, ông Cường nói.
Động cơ máy dệt của gia đình ông Cường đã hao mòn, gỉ sét qua gần nửa thế kỷ hoạt động.
Hàng nghìn sợi tơ được gia công trên ba chiếc máy dệt khung gỗ của gia đình bà Hoàng Yến (53 tuổi, đường Năm Châu). Để công đoạn này hoạt động chỉn chu, người thợ luôn phải đứng bên để theo dõi và xử lý những đoạn tơ bị đứt và rối.
Bà Yến cũng là thế hệ thứ ba trong gia đình theo nghề truyền thống. “Tôi làm nghề dệt hơn 30 năm rồi. Xưa gia đình có 5 máy, nhưng sau này nghề khó khăn, lại phải sửa sang nhà nên tôi phải bán. Có lẽ, chúng tôi cũng là thế hệ cuối cùng theo nghề vì con cháu chẳng còn mặn mà”, bà kể.
Những que suốt bằng gỗ được bà Yến dùng để cuộn sợi, nối sợi… Đây là những dụng cụ cần thiết của máy dệt truyền thống, cũng là trở ngại khiến máy không thể tự động hóa.
Bà Yến cầm trên tay tấm vải phi bóng thành phẩm – loại vải mộc để chờ giao bán cho các mối hàng trong thành phố. “Thời hoàng kim, vải ở đây rất được giá (15.000 đồng mỗi mét), giờ giảm chỉ còn 1/3 giá. Tôi nghĩ mình sẽ làm nghề này cho đến khi không còn ai mua nữa, vì bây giờ có chuyển nghề cũng không biết làm gì”, bà nói.
Theo các hộ dân ở khu Bảy Hiền, nghề dệt vải tại đây có thương hiệu từ năm 1960, đến khoảng năm 1993 thì bắt đầu chững lại bởi sự cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc và Hàn Quốc. Năm 2001, các gia đình có điều kiện chuyển đổi từ máy dệt khung gỗ sang máy nước, máy kim với hy vọng nghề dệt sẽ hồi sinh. Tuy nhiên, việc sản xuất ồ ạt, khiến vải tồn đọng, tiền gia công giảm từ 5.000 đồng xuống còn 800 đồng mỗi mét khiến nhiều hộ thua lỗ, phải đóng cửa cơ sở hoặc chuyển đổi nghề. Hiện hơn 90% hộ dân ở làng dệt đã chuyển nghề.
Thành Nguyễn/Dân Trí