Lời khuyên cho giới đầu tư trên thị trường chứng khoán lâu nay là phải đa dạng hoá danh mục sao cho đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Hiệu quả không phải cũng lúc nào cũng cao đối với một danh mục được đa dạng hoá với chứng khoán thế giới. Từ năm 2001, các thị trường chứng khoán toàn cầu có mối tương quan với nhau nhiều hơn, tức là chuyển động cùng một hướng ở hầu hết thời gian.
Cách để có một “bữa trưa miễn phí” dễ dàng nhất trong đầu tư, tức là đầu tư có lợi nhuận mà không bị rủi ro, là đa dạng hoá danh mục để đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Điều này dường như vẫn đúng khi nói đến số lượng cổ phiếu mà các nhà đầu tư sở hữu trên thị trường chứng khoán ở nước họ.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây của Elroy Dimson, Paul Marsh và Mike Staunton thuộc Trường Kinh doanh London cho thấy nó không phải lúc nào cũng đúng với một danh mục được đa dạng hoá với chứng khoán quốc tế.
Trong cuốn sách Global Investment Returns Yearbook của Credit Suisse, các học giả đã xem xét lịch sử của danh mục quốc tế kể từ năm 1974, khi Bruno Solnik viết một bài báo gây ảnh hưởng về chủ đề này trên Tạp chí Nhà phân tích Tài chính. Đặc biệt, họ tập trung vào kinh nghiệm của các nhà đầu tư Mỹ.
Từ năm 2001, các thị trường chứng khoán toàn cầu có mối tương quan với nhau nhiều hơn, tức là chuyển động cùng một hướng ở hầu hết thời gian. Ảnh: Getty Images. |
Nhiều nhà đầu tư tổ chức ở Mỹ tăng đáng kể phân bổ tài sản ở nước ngoài trong những thập kỷ gần đây. Tỷ lệ chứng khoán nước ngoài do các quỹ hưu trí Mỹ nắm giữ tăng từ 1% vào năm 1980 lên 18% vào năm 2019.
Tuy nhiên, sự đa dạng hoá danh mục đầu tư như vậy không mang lại hiệu quả về tổng lợi nhuận. Bởi, chứng khoán Mỹ vẫn tăng mạnh hơn chứng khoán bên ngoài Mỹ 1,9% mỗi năm trong giai đoạn từ năm 1974 đến cuối năm 2021. Con số thậm chí còn lớn hơn từ sau năm 1990, là 4,6%/năm.
Việc đa dạng hoá danh mục với cổ phiếu thế giới cũng không giúp giảm bớt sự biến động. Trung bình các thị trường chứng khoán ngoài Mỹ biến động mạnh gấp đôi so với Mỹ. Vì vậy, tỷ lệ Sharpe, đo lường mối quan hệ giữa lợi nhuận và mức độ biến động, tốt hơn rất nhiều đối với những nhà đầu tư Mỹ gắn bó với thị trường trong nước hơn những người mạo hiểm đầu tư ra nước ngoài.
Đà tăng mạnh mẽ của chứng khoán Mỹ cũng đồng nghĩa rằng việc đa dạng hoá danh mục ra thế giới mang lại lợi nhuận tốt hơn cho các nhà đầu tư ở nước khác. Trong số 32 quốc gia nơi giới học giả có báo cáo chi tiết về lợi nhuận từ năm 1974 đến năm 2021, việc đa dạng hoá danh mục với chứng khoán nước ngoài ở 24 quốc gia mang lại lợi nhuận tốt. Con số này đáng lẽ sẽ tăng lên 28 nếu họ thực hiện giao dịch phòng ngừa rủi ro các khoản đầu tư tiền tệ.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra là liệu tương lai có giống với quá khứ hay không. Thị trường chứng khoán Mỹ rơi vào tình trạng ảm đạm vào năm 1974, nhưng dù gặp phải một số cú sốc bất ngờ trong 50 năm qua, nó đã tăng điểm đáng kể. Hiện thị trường chứng khoán Mỹ chiếm 60% thị trường toàn cầu (theo tính toán của giới học giả), tăng từ mức 54% của năm 1974. Con số đó lớn hơn rất nhiều so với tỷ trọng của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu là khoảng 24%, giảm từ mức 36% vào năm 1970.
Dù vậy, mối liên hệ giữa nền kinh tế và thị trường chứng khoán của một quốc gia không còn rõ ràng như trước đây. Nhiều công ty lớn nhất của Mỹ, như Alphabet, Apple và Microsoft, là những thương hiệu toàn cầu có tỷ trọng đáng kể trong doanh thu và lợi nhuận đến từ bên ngoài nước Mỹ. Theo một nghĩa nào đó, khối doanh nghiệp đã đa dạng hoá thay cho giới đầu tư. Đầu tư vào thị trường chứng khoán Mỹ không còn đơn giản là đặt cược vào người tiêu dùng Mỹ hay định hướng chính sách tiền tệ của riêng Mỹ.
Một yếu tố khác có thể ngăn cản giới đầu Mỹ đa dạng hoá danh mục ra nước ngoài là các thị trường chứng khoán trên thế giới có mối tương quan nhiều hơn thời điểm trước khi hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods sụp đổ vào đầu những năm 1970. Từ năm 1946 đến năm 1971, các học giả của LBS nhận thấy rằng tỷ lệ tương quan trung bình giữa các thị trường chứng khoán Mỹ, Anh, Pháp và Đức ở mức khiêm tốn là 0,11. Từ năm 2001 đến năm 2021, con số này tăng lên 0,88, có nghĩa là các thị trường hầu như luôn chuyển động theo cùng một hướng.
Tuy nhiên, rủi ro địa lý vẫn chưa hoàn toàn biến mất, giống như khi thị trường chứng khoán Nga sụp đổ sau chiến dịch quân sự đặc biệt của Moscow ở miền đông Ukraine. Đây không phải lần đầu tiên giới đầu tư ở Nga chứng kiến danh mục của họ bị phá huỷ. Nga là thị trường chứng khoán lớn thứ 5 thế giới, tính theo giá trị, vào năm 1900, nhưng tất cả đã bị xoá sổ sau cuộc cách mạng năm 1917. Năm 1998, chính phủ Nga vỡ nợ, các nhà đầu tư chứng khoán cũng mất 75% giá trị tài sản.
Đức cũng là thị trường chứng khoán lớn thứ 3 thế giới tính theo giá trị vào năm 1900, nhưng giới đầu tư sau đó phải chịu 3 giai đoạn thiệt hại lớn, gồm hai cuộc chiến tranh thế giới và thời kỳ siêu lạm phát 1922 – 1923.
Dù không có gì chắc chắn những thứ nghiêm trọng như vậy không thể xảy ra với Mỹ, song việc giới đầu tư Mỹ đặt cược vào thị trường chứng khoán trong nước cho thấy họ vẫn ngầm giả định rằng quốc gia này sẽ duy trì được vị thế vững chắc.
Mặt khác, những “gã khổng lồ” công nghệ của Mỹ đang là mục tiêu công kích với cáo buộc độc quyền và tác động đối với tương tác xã hội, nên họ có thể sẽ bị quản lý chặt chẽ hơn trong tương lai. Điều này có thể làm giảm triển vọng tăng trưởng lợi nhuận, hoặc ít nhất là kéo giảm định giá của họ.
Chưa kể, làn sóng trừng phạt quốc tế đối với Nga và căng thẳng thương mại Mỹ – Trung Quốc cho thấy xu hướng toàn cầu hoá có thể đang thoái trào, trong khi toàn cầu hoá nhìn chung vốn là tin tức tốt lành cho khối doanh nghiệp Mỹ.
Vẫn rất hợp lý khi đánh cược rằng các nhà đầu tư Mỹ sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn từ một danh mục quốc tế đa dạng trong 50 năm tới so với 50 năm qua. Trong bối cảnh các thị trường chứng khoán toàn cầu có mối tương quan nhiều hơn, việc đa dạng hoá danh mục với tài sản quốc tế có thể không còn là “bữa trưa miễn phí” nhưng có vẻ vẫn là một cách chấp nhận được để bảo vệ danh mục.
Thanh Long (Theo Financial Times) / Vietnamfinance