Giá vàng quốc tế tăng 18,5% từ đầu năm khiến giá vàng trong nước tăng 16% trong 8 tháng.
Lãi suất liên ngân hàng và thị trường 1 đều tăng vào những ngày cuối tháng.
Vàng trở thành kênh đầu tư có mức sinh lời tốt nhất kể từ đầu năm đến nay.
Bộ phận Phân tích Khối Khách hàng cá nhân CTCP Chứng khoán SSI – SSI Retail Research vừa có báo cáo thị trường tiền tệ tháng 8. Báo cáo đề cập, lũy kế 8 tháng, mức sinh lời cao nhất trong các kênh đầu tư truyền thống ở cả thị trường trong nước và quốc tế thuộc về vàng. Giá vàng quốc tế tăng tới 18,5% từ đầu năm khiến giá vàng trong nước cũng tăng tới 16% từ đầu năm, vượt mức sinh lời của kênh cổ phiếu và bỏ xa các kênh đầu tư trái phiếu, tiền gửi và JPY. Đợt tăng giá mạnh gần nhất của vàng là giai đoạn 2008-2012 khi Mỹ vật lộn với cuộc khủng hoảng nợ, Fed duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ và đồng USD yếu, vàng đã tăng giá liên tục, đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử 1,918 USD/oz vào cuối tháng 8/2011 (tức cao hơn vùng giá hiện tại gần 24%) và bắt đầu giảm rất mạnh từ 2013.
So với 2011, đồng USD hiện tại mạnh hơn rất nhiều. Nếu so sánh cặp tỷ giá USD/EUR thì đồng USD của hiện tại có giá trị hơn USD của thời điểm cuối 2011 tới gần 20%. Điều đó có nghĩa là giá vàng hiện tại đang gần tương đương với vùng giá đỉnh lịch sử. Vàng cũng là hàng hóa có yếu tố đầu cơ khá cao nên các nhà đầu tư cần hết sức thận trọng với các quyết định đầu tư vào vàng tại thời điểm này.
Nhóm 10 nước có kim ngạch thương mại lớn nhất với Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay là Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia, Đức và Indonesia. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với 10 nước này trong 7 tháng 2019 là 208,4 tỷ USD – tương đương 73,4% tổng kim ngạch thương mại của nước ta với toàn thế giới. Trong đó, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia, Indonesia; xuất siêu sang Mỹ, Đức, Ấn Độ và Nhật. Việc VND giữ giá khá ổn định với USD trong thời gian vừa qua đã khiến tiền đồng tăng giá so với khá nhiều các đồng tiền khác.
Hoạt động thương mại với Đức và Ấn Độ, Indonesia và Thái Lan có thể có một số khó khăn do diễn biến tỷ giá. Việt Nam xuất siêu sang Đức và Ấn độ nhưng VND lên giá so với EUR và INR, nhập siêu từ Indonesia, Thailand nhưng VND mất giá so với IDR và THB. Tuy nhiên, cán cân thương mại với 4 nước này khá nhỏ. VND tăng giá so với CNY, KWR và TWD đã giúp hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, những nước Việt nam nhập siêu nhiều nhất trở nên rẻ hơn, làm giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Lãi suất đi ngang trong tháng và “nóng” lên vào những ngày cuối tháng
Trong tháng 8, NHNN bơm ròng 68.400 tỷ đồng trên thị trường mở, cùng với giao dịch mua vào ngoại tệ đã hỗ trợ nguồn cung VND khá dồi dào, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động ổn định quanh mức 3%/năm với kỳ hạn qua đêm. Tuy nhiên, lãi suất này bật lên 4,35% vào cuối tháng dù NHNN đã bơm ròng hơn 31.000 tỷ đồng chỉ riêng trong tuần cuối tháng. Nhu cầu VND tăng cao trước kỳ nghỉ lễ 2/9 và đảm bảo nguồn dự trữ bắt buộc đầu tháng trong khi khối ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Nhà nước giảm nguồn cung là nguyên nhân chính khiến lãi suất trên LNH tăng mạnh. Đây là biến động mang tính chất thời điểm nên chúng tôi cho rằng lãi suất này sẽ sớm giảm về vùng 3,5%/năm, chênh lệch lãi suất VND-USD duy trì ở mức 1,4%/năm.
Lãi suất huy động trên thị trường 1 cũng tăng nhiệt trong một vài tuần gần đây khi số lượng các ngân hàng thương mại (NHTM) đưa ra mức lãi suất cao với các kỳ hạn dài đang tăng lên, mức lãi suất 8-8,5%/năm với kỳ hạn 12 tháng và lên trên 9%/năm với các kỳ hạn từ 24 tháng trở lên thông qua sản phẩm chứng chỉ tiền gửi. Hầu hết NHTM áp dụng lãi suất huy động tốt hơn đối với khách hàng cá nhân. Với đối tượng khách hàng tổ chức, chúng tôi nhận thấy lãi suất có nhích tăng chút ít ở nhóm NHTM cổ phần nhỏ nhưng giảm nhẹ ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước (SOBs) và các NHTM cổ phần lớn, ở mức 4,3-5,5%/năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,5-7,5%/năm với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 6,4-8,1%/năm với kỳ hạn 12-13 tháng.
Theo số liệu từ NHNN, trong tổng mức tăng trưởng tín dụng 7,36% của 6 tháng đầu năm 2019, nhóm các hoạt động dịch vụ khác vẫn là nhóm tăng trưởng mạnh nhất (9,07%), mảng tín dụng tiêu dùng cũng được xếp trong nhóm này. Lãi suất huy động thời gian tới sẽ tiêp tục phân hóa mạnh, phụ thuộc vào tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và cơ cấu tín dụng của từng ngân hàng, chênh lệch giữa các nhóm ngân hàng với tiền gửi cùng kỳ hạn bị dãn rộng ra.
Trâm Anh (SSI Retail Research)
Theo Người Đồng Hành