Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận được vốn trên kênh thị trường chứng khoán cũng như kênh vốn vay ngân hàng. Các doanh nghiệp nhỏ phải trả chi phí vốn cao hơn các doanh nghiệp lớn bởi họ chưa phải là đối tượng “được ưu tiên” phân phối vốn.
Đây là những chia sẻ của các thành viên/cố vấn cao cấp trong nhóm công tác doanh nghiệp của Hội doanh nhân trẻ Việt Nam trong phiên họp chuyên đề “Thị trường tài chính và huy động vốn” để tổng hợp ý kiến, phát triển nội dung tham luận trình bày tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2016 sẽ diễn ra vào tháng 6/2016 tới đây.
Huy động vốn qua kênh chứng khoán: Chợ vắng người mua và người bán!
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có hơn 15 năm hình thành và phát triển, đến nay, các doanh nghiệp tiếp cận vốn chủ yếu vẫn qua kênh ngân hàng. Theo ông Johan Nyvene, Tổng giám đốc CTCK HSC, chủ tịch phiên họp cho rằng, không dễ để huy động vốn thông qua phát hành cổ phần hay trái phiếu doanh nghiệp đối với một doanh nghiệp có doanh thu hơn 500 tỷ đồng/năm và càng rất khó đối với doanh nghiệp có doanh thu dưới 500 tỷ đồng/năm. Đồng thời, vấn đề của thị trường chứng khoán Việt Nam nằm ở thanh khoản cho cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu.
Các thành viên trong phiên thảo luận cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phải là thị trường mới nổi, chỉ là thị trường cận biện. 85% nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán hiện là nhà đầu tư cá nhân, tổ chức tài chính trong nước quy mô nhỏ; 15-17% còn lại là các tổ chức đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào TTCK một bộ phận không nhỏ cho rằng đó không phải là hoạt động đầu tư mà là “may rủi”; và các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài có xu hướng “đánh quả”.
Việt Nam có cái chợ vốn nhưng là cái chợ không có sẵn người mua và người bán, người mua sợ mua giá cao, người bán sợ bán giá thấp, bị hớ.
Bởi, chỉ tính riêng trong khu vực Asean, chỉ tiêu tín nhiệm quốc gia của Việt Nam vẫn thấp hơn Indonesia, Phillippnes 7-8 bậc; mức tín nhiệm bị xếp hạng BB-…. là điểm nghiêm trọng giải thích cho việc thị trường chứng khoán thiếu hẳn các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư lớn như quỹ hưu trí, Hedge Fund… cũng như Việt Nam không nằm trong danh mục được ưu tiên đầu tư trái phiếu của các tổ chức nước ngoài.
Trong khi thị trường không có hoặc có rất ít cổ phiếu của những công ty có quy mô lớn (như Mobifone, Vietnam Airlines, …) để hấp dẫn các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia.
2 năm trở lại đây, các doanh nghiệp lớn “được cơ hội” tiếp cận vốn vay ngân hàng giá rẻ, lãi suất thấp nên họ không có nhu cầu huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp thà đi vay ngân hàng hơn là phát hành cổ phần giá rẻ. Và nếu ngân hàng tiếp tục cho vay rẻ các doanh nghiệp không có động cơ huy động vốn, nguồn cung có “chất lượng” trên thị trường chứng khoán càng eo hẹp.
Thanh khoản phải được đảm bảo và mức chấp nhận rủi ro phải được chắc chắn là 2 yếu tố khiến các tổ chức tài chính lớn cân nhắc khi đầu tư vào thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, các tổ chức tài chính hẳn nhiên sẽ ưu tiên vốn đầu tư vào các doanh nghiệp có quy mô lớn; các doanh nghiệp nhỏ khó và rất khó để huy động vốn từ phát hành cổ phần.
Đại diện của một tổ chức đầu tư phân trần: “khi chúng tôi nói chuyện với những người chủ doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa về tương lai của doanh nghiệp 5 năm sắp tới sẽ như thế nào nhưng họ không trả lời được. Vậy làm sao chúng tôi dám đảm bảo được rủi ro về khoản đầu tư của mình?! Do đó, nếu có đầu tư vào các doanh nghiệp này chúng tôi sẽ phải đòi hỏi phần thặng dư lớn hơn để bù cho những rủi ro khó lường trong tương lai”.
Ở thị trường trái phiếu, chủ yếu chỉ là trái phiếu chính phủ được mua bởi các ngân hàng thương mại, một vài tổ chức tài chính. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam chưa có thanh khoản. Dù cho doanh nghiệp có phát hành trái phiếu đảm bảo thanh khoản thì cũng không có tổ chức nào đảm bảo cho rủi ro hoạt động của doanh nghiệp đó. Hiện chỉ có trái phiếu của một vài doanh nghiệp lớn phát hành riêng lẻ cho các tổ chức tài chính chủ yếu đến từ trong nước.
Các thành viên của nhóm công tác cho rằng, Chính phủ cần có cơ chế hỗ trợ cho quá trình chu chuyển vốn; phân bổ vốn; chính sách giúp đở các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển lớn mạnh; và cần có chính sách khuyến khích để nhà đầu tư lẫn doanh nghiệp chấp nhận rủi ro trong đầu tư.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng ưu tiên phân phối vốn cuối cùng!
Mặc dù vốn của các ngân hàng thương mại đang hướng đến các doanh nghiệp SMEs; cho vay cá nhân. Nhưng nhóm SMEs vẫn là đối tượng tiếp cận vốn xếp sau nhóm doanh nghiệp nhà nước (SOEs), doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp thân hữu. Chi phí vay của các doanh nghiệp SMEs vẫn cao hơn nhóm các doanh nghiệp lớn, SOEs, và nhóm doanh nghiệp thân hữu.
Một thành viên của nhóm công tác đến từ khu vực ngân hàng giải thích, các ngân hàng cho các doanh nghiệp lớn vay với lãi suất thấp do ngân hàng đánh giá rủi ro doanh nghiệp thấp. Từ quốc gia đến doanh nghiệp một khi có mức tín nhiệm không cao vốn sẽ không vào nhiều, quốc gia/doanh nghiệp khó tiếp cận vốn. Quốc giá khó tiếp cận vốn gián tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp bị hạn chế tiếp cận vốn giá rẻ để đầu tư cho dài hạn.
Ngoài ra, SMEs khó tiếp cận được vốn vì mức tín nhiệm nhưng một phần vì giá vốn cho vay của các ngân hàng khó giảm bởi “cục máu đông” nợ xấu của các ngân hàng chưa giải quyết dứt điểm. Vì vậy, nếu ngân hàng không cắt bỏ nợ xấu, giải quyết cục máu đông của họ thì khối tư nhân vẫn rất khó để tiếp cận vốn.
Đại diện của hiệp hội doanh nhân trẻ ở Bà Rịa – Vũng Tàu và Cần Thơ đồng tình quan điểm thị trường vốn Việt Nam có cái chợ nhưng không có người mua, người bán. Đồng thời cho rằng vốn trong dân dồi dào bao gồm cả VND, USD và vàng, nhưng để huy động được vốn này vào sản xuất đầu tiên phải tạo niềm tin. Với nền kinh tế tham nhũng nhiều, nhiều doanh nghiệp phát triển đến đoạn chủ động chửng lại, không muốn đầu tư, đầu tư cầm chừng làm sao có thể tạo niềm tin cho dân chúng?!.
Hồng Quân
Theo Bizlive